Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Ngày 10/8, tại TP Hội An (Quảng Nam), Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) phối hợp Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) và UBND tỉnh Quảng Nam tổ chức tọa đàm “Xây dựng nguồn nguyên liệu mây tre lá bền vững, góp phần phát triển ngành nghề nông thôn ở Việt Nam” thông qua Dự án Quản lý rừng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do USAID tài trợ. Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Trần Thanh Nam; Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hồ Quang Bửu và Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hòa Bình Đinh Công Sứ đồng chủ trì tọa đàm.


Tọa đàm thu hút đông đảo các chuyên gia kinh tế, doanh nghiệp tham dự, chia sẻ kinh nghiệm. (Ảnh: A.N, baoquangnam.vn)

Theo Bộ NN-PTNT, nước ta hiện có khoảng 893 làng nghề mây tre đan (làng có trên 30% lao động làm nghề mây tre đan), trong đó có 647 làng nghề mây tre đan và 246 làng nghề đan cói, lục bình. Số lao động nông thôn tham gia sản xuất các sản phẩm mây tre đan khoảng 342.000 người. Cùng với Trung Quốc, Indonesia và Philippines, Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu mây tre đan lớn trên thế giới.

Năm 2019, xuất khẩu các sản phẩm mây tre đan của Việt Nam đạt 474 triệu USD, đây là nhóm sản phẩm cho giá trị cao nhất trong nhóm mặt hàng lâm sản ngoài gỗ. Sản phẩm mây tre đan của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang các nước EU (chiếm 31,44% tỷ trọng), thị trường Mỹ (chiếm 19,5%) và Nhật Bản (chiếm 9,3%). Riêng thị trường Hoa Kỳ đã mang về cho ngành 128,76 triệu USD trong năm 2019. So với kim ngạch xuất khẩu mây tre đan toàn cầu, thị phần mây tre đan của Việt Nam chiếm 16%.

Theo ông Hồ Quang Bửu, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Nam, tỉnh này được biết đến là trung tâm của vùng nguyên liệu mây, có trữ lượng mây lớn nhất cả nước. Bên cạnh có, Quảng Nam cũng có nhiều đơn vị chế biến nguyên liệu mây và sản xuất các sản phẩm thủ công từ mây. Từ đó giúp địa phương này trở thành một trung tâm chế biến nguyên liệu mây lớn nhất cung cấp cho các làng nghề ở Việt Nam.

“Tuy nhiên, với xu hướng tiêu dùng của người tiêu dùng toàn cầu, ngành chế biến mây của Quảng Nam nói riêng và ngành chế biến mây tre lá của Việt Nam nói chung đang đứng trước những thời điểm mang tính chất sống còn, yêu cầu có những sự thay đổi phù hợp để đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới”, ông Bửu nói.

Theo đó, các yếu tố rủi ro cho việc phát triển nguyên liệu ngành mây tre lá ngày càng hiện hữu như việc thiếu các thông tin tin cậy về trữ lượng để có thể xây dựng các chính sách khoanh nuôi, khai thác phù hợp; thiếu nguồn nguyên liệu được cấp chứng chỉ bền vững. Sự đầu tư và liên kết giữa các nhân tố trong chuỗi giá trị còn rất ít.

Ngoài ra, nguyên liệu mây tre hiện nay đang bị suy giảm nghiêm trọng. Lao động làng nghề ngày càng suy giảm trong khi nhu cầu thị trường vẫn lớn. Liên kết giữa các hội mây, tre, lá với các doanh nghiệp cũng như hiệp hội thủ công mỹ nghệ khác còn yếu; hoạt động xúc tiến thương mại cho ngành thủ công mỹ nghệ nói chung và ngành mây tre đan còn khá hạn chế và chưa hiệu quả.

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, việc tổ chức tọa đàm nhằm đưa ra các giải pháp thực hiện mục tiêu nâng kim ngạch xuất khẩu hàng thủ công do các làng nghề sản xuất. Đồng thời phát triển nguyên liệu tập trung phục vụ làng nghề, cũng như xây dựng các mô hình làng nghề tiêu biểu gắn với vùng nguyên liệu có chứng chỉ bền vững được đặc biệt ưu tiên.

Theo Thứ trưởng Trần Thanh Nam, hiện nay, diện tích tre của cả nước khoảng 1,5 triệu ha với khoảng 6 tỷ cây, hàng năm có thể khai thác trên 3 triệu tấn, đủ để cung cấp phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu. Hướng đi sắp tới của Bộ NN-PTNT là xây dựng các vùng nguyên liệu có chứng chỉ, đảm bảo phát triển bền vững, gắn với ngành nghề và du lịch nông thôn. Từ đó tạo sinh kế, nâng cao đời sống cho người dân khu vực nông thôn

Cũng trong khuôn khổ tọa đàm, lễ ký kết thỏa thuận hợp tác giữa Dự án Quản lý rừng bền vững và bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC) do USAID tài trợ với 4 công ty và hợp tác xã trong ngành hàng mây tre lá được tổ chức, gồm Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại Lục Đông, Công ty TNHH Đức Phong, Công ty TNHH SX & TM Bamboo Vina, Hợp tác xã Làng nghề truyền thống mây tre đan Xóm Bui.

Thông qua Dự án Quản lý rừng bền vững và Bảo tồn đa dạng sinh học (VFBC), Chính phủ Hoa Kỳ và Chính phủ Việt Nam đã và đang triển khai các giải pháp quản lý rừng bền vững, trong đó bao gồm hoạt động phát triển chuỗi giá trị lâm sản ngoài gỗ bền vững, cụ thể là chuỗi giá trị mây tre lá tại 5 tỉnh là Sơn La, Hòa Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Nam.

Hoạt động này không chỉ đảm bảo nguồn nguyên liệu ổn định cho các làng nghề mây tre lá, các đơn vị xuất khẩu mà còn thúc đẩy các lợi ích sinh kế, xã hội và môi trường, đặc biệt là giảm mất rừng, giảm suy thoái rừng và tăng khả năng hấp thụ carbon từ rừng.

 

BBT tổng hợp



31017